Bối Cảnh Kinh Tế Xã Hội Việt Nam Hiện Nay
Tóm tắt: Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ quốc gia có thu nhập thấp sang quốc gia có thu nhập trung bình. Song, những khó khăn nội tại và thách thức bên ngoài của nền kinh tế làm cho nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình là có thể. Từ quan niệm về bẫy thu nhập trung bình, bài viết chỉ ra các nguy cơ sập bẫy thu nhập trung bình của Việt Nam và đưa ra một số hàm ý chính sách để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Từ khóa: Bẫy thu nhập trung bình; chuyển dịch cơ cấu kinh tế; năng suất lao động.
Là những ngành ít có sự cạnh tranh đầu vào
Lợi thế tiếp theo dành cho bạn khi lựa chọn du học Nhật Bản ngành xã hội là ít có sự cạnh tranh đầu vào. Cụ thể là bởi số đông lựa chọn ngành khoa học tự nhiên, kinh tế nên bạn sẽ được giảm tỷ lệ chọi. Đồng nghĩa cơ hội đỗ đầu vào của bạn khi du học ngành khoa học xã hội tại Nhật Bản sẽ cao hơn.
Tuy nhiên, dù dễ dàng hơn nhưng điều kiện nhìn chung để du học Nhật Bản vẫn khắt khe hơn nhiều quốc gia. Đây là điều mà bạn cũng rất cần quan tâm, không được chủ quan.
So với khối ngành tự nhiên và kinh tế khì du học ngành khoa học xã hội tại Nhật Bản học phí và chi phí nói chung thấp hơn khá nhiều. Hơn nữa cũng vì tỷ lệ chọi ít nên bạn sẽ có nhiều cơ hội hơn để nhận học bổng với những ngành này. Đặc biệt đi du học theo hướng phái cử nghiên cứu lựa chọn các ngành khoa học xã hội cũng khá dễ dàng. Bạn có thể xin học bổng du học Nhật Bản các ngành xã hội dễ dàng hơn.
Trong số những ngành khoa học xã hội hiện nay, du học Nhật Bản ngành luật cũng như du học Nhật Bản ngành ngôn ngữ, giáo dục là những ngành vẫn khẳng định được sức hấp dẫn và độ cần thiết mà bạn có thể tham khảo.
Du học Nhật Bản ngành xã hội không được đánh giá cao như các ngành khoa học tự nhiên
Khó khăn đầu tiên khi bạn du học ngành khoa học xã hội tại Nhật Bản chính là phải vững vàng vượt qua bản lĩnh bởi sự cản trở của thiên hạ. Cụ thể ngay từ gia đình, bạn bè, chắc hẳn bạn sẽ dễ dàng bị phản đối, tư vấn lại về việc chọn ngành nếu đưa ra lựa chọn ngành xã hội thay vì tự nhiên.
Vốn không được đánh giá cao từ người học, và cả các cơ quan chức năng nên ngành xã hội là những ngành có nhiều thiệt thòi hơn so với ngành tự nhiên nếu so về độ đầu tư của ngành giáo dục và nhà nước.
Khoa học xã hội có nhiều ngành được coi trọng tại Nhật
Trước hết, dù không phải là những ngành được lựa chọn và đánh giá là mũi nhọn, thế nhưng thực tế thì một số ngành học khoa học vẫn rất được coi trọng hiện nay tại Nhật. Đó là các ngành như luật sư, giáo dục… Những ngành này được nể phục không kém so với các ngành mũi nhọn. Mức thu nhập của ngành nghề này cũng khá cao.
Những lợi thế khi du học Nhật Bản ngành xã hội
Dù không phải là những ngành học HOT được nhiều bạn trẻ lựa chọn, nhưng du học Nhật các ngành xã hội cũng có những lợi thế nhất định trong bối cảnh hiện nay mà bạn có thể tham khảo.
Những khó khăn du học Nhật Bản ngành xã hội
Bên cạnh những thuận lợi thì ngành khoa học xã hội tại Nhật Bản cũng có những khó khăn, nhất là trong bối cảnh hiện tại, người ta vẫn có xu thế lựa chọn những ngành khoa học tự nhiên và kinh tế và cho rằng đó là những ngành trọng điểm với sự đóng góp quan trọng hơn cho ngành kinh tế.
Tính ứng dụng không cao, đặc biệt là trở về nước làm việc
Thêm một khó khăn cho bạn khi lựa chọn ngành xã hội du học Nhật Bản là những ngành này tính ứng dụng không cao. Nhất là nếu bạn du học ở Nhật Bản rồi lại trở về nước làm việc. Bởi ở mỗi quốc gia, trong khi kiến thức về khoa học tự nhiên là khá tương đồng và có thể áp dụng rộng rãi thì khoa học xã hội là những ngành gắn liền hơn với tính cách và văn hóa cố hữu của con người.
Chính vì vậy việc học những kiến thức được cho là mơ hồ của ngành khoa học xã hội sẽ càng khó ứng dụng hơn khi mang nó đến một quốc gia khác làm việc và ứng dụng.
Trên đât là một số thông tin xung quanh vấn đề du học Nhật Bản ngành xã hội. Nói chung, trong bối cảnh hiện tại, ngành xã hội sẽ theo xu hướng giảm dần độ hấp dẫn. Tuy nhiên, theo như tính toán, ngành kinh tế, khoa học công nghệ rồi cũng sẽ có lúc đạt đỉnh và bão hòa. Đó là khi con người lại trở về với nhu cầu tinh thần và cân bằng đời sống. Đó cũng là lúc phục hưng lại sự hấp dẫn của các ngành xã hội và nhân văn.
CLICK NGAY để được tư vấn và hỗ trợ MIỄN PHÍ
Chat trực tiếp cùng Thanh Giang
Link facebook: https://www.facebook.com/thanhgiang.jsc
Bài viết cùng chủ đề Dịch vụ - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Chi phí - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Địa chỉ - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Điều kiện - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Hồ sơ - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Visa du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Quy trình - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Ngành học - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Học bổng - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Kinh nghiệm - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Hỏi đáp - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Loại hình - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Thông tin - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Học tiếng - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Trường học - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Làm thêm - Du học Nhật Bản
Bài viết cùng chủ đề Đất nước Nhật Bản
Nguồn: https://duhoc.thanhgiang.com.vn
Một số quốc gia đang cấm xuất khẩu gạo cũng đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với gạo Việt.
Dự kiến năm nay xuất khẩu trên 7 triệu tấn gạo
Theo báo cáo mới nhất từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cập nhật đến cuối tháng 7, xuất khẩu gạo 7 tháng đầu năm đạt 4,84 triệu tấn với giá trị 2,58 tỉ USD, tăng 29,6% so với cùng kỳ năm 2022. Trong những ngày gần đây giá gạo tăng cao đẩy giá lúa tại đồng bằng sông Cửu Long tăng. Cụ thể, giá lúa IR50404 tăng lên mức 6.500 đồng/kg; lúa OM 5451 tăng lên mức 6.800 đồng/kg; lúa đài thơm lên mức 6.950 đồng/kg.
Ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho rằng, diễn biến giá gạo thế giới tăng cao trong những ngày gần đây là thời cơ để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo, cần phải tận dụng để nâng cao thu nhập cho người trồng lúa, nếu không tranh thủ sẽ bị lỡ cơ hội này.
Theo ông Cường, kế hoạch năm nay, cả nước gieo cấy 7,1 triệu ha, sản lượng dự kiến đạt trên 43 triệu tấn lúa. Mục tiêu này hoàn toàn có thể đạt được khi theo tính toán hiện nay, sản lượng lúa có thể đạt 43,1 - 43,2 triệu tấn, thậm chí có những kịch bản còn cao hơn.
Để tận dụng, nắm bắt thời cơ xuất khẩu gạo, Cục Trồng trọt đã bố trí nâng diện tích trồng lúa trong vụ thu đông ở đồng bằng sông Cửu Long lên 700.000 ha, trong khi theo kế hoạch từ đầu năm là khoảng 650.000 ha.
Ông Cường cũng nhấn mạnh năm 2022, Việt Nam có sản lượng lúa trên 42 triệu tấn thì xuất khẩu được 7,13 triệu tấn gạo. Còn năm nay, dự kiến sản xuất được trên 43 triệu tấn lúa (thậm chí có kịch bản còn nhiều hơn) thì đương nhiên có thể xuất khẩu gạo vượt kỷ lục của năm 2022. Dự kiến năm nay, Việt Nam sẽ xuất khẩu trên 7 triệu tấn gạo. Hiện nay, các doanh nghiệp đang đẩy mạnh xuất khẩu gạo nhưng sẽ không ảnh hưởng đến an ninh lương thực trong nước.
"Khi chúng tôi cân đối nhu cầu tiêu thụ gạo cho 100 triệu dân, lượng gạo sử dụng trong chế biến, sản xuất thức ăn chăn nuôi, dự trữ... đều chủ động nâng lên tỷ lệ rất cao. Thí dụ, thống kê trung bình mỗi tháng 1 người dân Việt Nam tiêu thụ khoảng 7,5 kg nhưng khi tính toán đã nâng lên 9 kg/tháng. Ngoài ra, diện tích trồng lúa năm nay cao hơn 1 triệu ha thì chúng ta có xuất khẩu đến 8 triệu tấn gạo, thậm chí là hơn nữa cũng không ảnh hưởng gì đến nguồn cung gạo cho nhu cầu ở trong nước, đảm bảo an ninh lương thực", ông Cường khẳng định.
Cần tận dụng cơ hội để bứt phá xuất khẩu gạo
Phân tích về nguyên nhân một số thị trường ngừng xuất khẩu gạo chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy Việc phân tích các nguyên nhân chính. Thứ nhất, biến đổi khí hậu, thời tiết, tình trạng El nino kéo dài. Nguồn cung gạo bị giảm, cụ thể như Nga, UAE cũng đình lại, riêng tại Ấn Độ đã xuất khẩu 22 triệu tấn và hiện đang thiếu hụt khoảng 25%. Do đó, buộc các nước phải dự trữ.
“Năm nay, tại Việt Nam, trong bối cảnh thời tiết bình thường, chúng ta có thể đạt con số sản lượng khoảng 43,2 triệu tấn, như vậy, vẫn bảo đảm cho nguồn xuất khẩu khoảng 7,2 triệu tấn. Đây cũng là con số cao so với các năm”, ông Hoàng Trọng Thủy nhận định.
Theo chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy bên cạnh những thuận lợi vẫn còn những thách thức bởi trồng lúa phụ thuộc vào tình hình thời tiết, khí hậu, mưa bão, lũ lụt. Tuy nhiên, với việc tăng thêm 50 ha diện tích trồng lúa tại Đồng bằng sông Cửu Long (từ 650.000 ha trước đó lên 700.000 ha), chúng ta vẫn có thể bảo đảm nguồn cung cho xuất khẩu gạo.
“Mặt khác, chúng ta vẫn còn vụ lúa Đông Xuân. Do đó, với dự báo xuất khẩu gạo đạt từ 7,2 đến 7,5 triệu tấn gạo, đây là con số dự báo tương đối an toàn”, ông Thủy khẳng định.
Nhận định về cơ hội và thách thức của gạo Việt trong bối cảnh hiện nay, Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến khẳng định: Việc Ấn Độ, Nga, UAE ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo là tình thế, thời cơ cho gạo Việt, cơ hội cho người trồng lúa, đặc biệt là tại Đồng bằng sông Cửu Long. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về tăng cường công tác xuất khẩu gạo trong tình hình mới.
“Nhiều ý kiến từ doanh nghiệp tôi cho rằng rất chí lý, đó là khi khó khăn, không bán được hàng thì cộng đồng doanh nghiệp phải có sự chia sẻ nhất định, như vậy mới có thể phát triển bền vững thị trường gạo. Giá gạo của chúng ta hiện đã cao hơn giá gạo của Thái Lan và Ấn Độ, đây là một giá trị rất lớn. Dự kiến, năm nay, xuất khẩu gạo sẽ đạt trên 7 triệu tấn với giá trị 4,1 tỷ USD”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định.
Trong nhiều năm qua, chúng ta bảo đảm an ninh lương thực trong nước, góp phần bảo đảm an ninh lương thực khu vực và an ninh lương thực thế giới. Với tình hình thị trường hiện nay, chúng ta vừa chớp cơ hội, vừa bảo đảm tăng trưởng, vừa đảm bảo nâng cao giá trị, vừa đảm bảo sự chia sẻ với cộng đồng khu vực và quốc tế.