- Học sinh lựa chọn 1 trong các vai trò để trình bày ví dụ.

Lấy ví dụ minh họa về một trong những vai trò của ngành dịch vụ

Anh A khởi nghiệp phát triển doanh nghiệp chuyên về lĩnh vực vận tải, sau một thời gian khởi nghiệp thì doanh nghiệp của anh A đã mở rộng phát triển nhiều chi nhánh hơn.

Lúc này đã đặt ra nhu cầu tuyển dụng thêm lao động, từ đó góp phần tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động; Ngành vận tải cũng là một dịch vụ thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế khác.

Chị H đã mở một Spa dịch vụ chăm sóc da, thẩm mỹ. Spa của chị H phát triển nhanh chóng và được nhiều khách hàng biết tới và sử dụng.

Có thể thấy dịch vụ spa làm đẹp của chị H đã đáp ứng nhu cầu chất lượng đời sống của con người.

Anh T là một cử nhân ngành luật, anh đã học thêm Công chứng viên và mở một văn phòng công chứng. Văn phòng anh T đã cung cấp dịch vụ công chứng giấy tờ cho doanh nghiệp và công dân.

Có thể thấy văn phòng của anh T đã cung cấp dịch vụ công phục vụ nhu cầu của con người về vấn đề pháp lý, xã hội.

Trên đây là những tìm hiểu của Hoa Tiêu về vấn đề Lấy ví dụ minh họa về một trong những vai trò của ngành dịch vụ. Mời bạn đọc tham khảo thêm những thông tin hữu ích trong mục Học tập Lớp 10 liên quan.

Lợi thế của ngành thủy sản nước ta

Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, 112 cửa sông lạch, vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1triệu km2 với 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên, nhiều eo, vịnh, vụng, đầm, phá và nhiều ngư trường, trữ lượng hải sản gần 3 triệu tấn. Thềm lục địa nước ta rộng hơn 1 triệu km2 (gấp 3 lần diện tích đất liền), diện tích mặt nước 1triệu km2, trong đó diện tích khai thác đạt 553.000 km, nhưng hiện tại mới chỉ khai thác được khoảng 65% nguồn lực hải sản cho phép.

Tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản nước ta rất lớn với 1,4 triệu ha mặt nước nội địa, 300.000 ha bãi triều, 400.000 ha hồ chứa, sông suối, 600.000 ha ao hồ nhỏ ruộng trũng, có thể đưa vào sử dụng để nuôi trồng thủy sản. Năng suất nuôi trồng thủy sản mới chỉ bằng 10%- 25% năng suất của các nước trong khu vực.

Theo Bộ Thủy sản, Việt Nam có trên 2000 loài cá, trong đó có khoảng 100 loài có giá trị kinh tế cao. Bước đầu đánh giá trữ lượng cá biển trong vùng thềm lục địa khoảng trên 4 triệu tấn. Khả năng khai thác hàng năm khoảng 1,67 triệu/năm. Tình hình cụ thể của các loài cá:

-Cá tầng đáy: 856.000 tấn, chiếm 51,3%.

-Cá nổi nhỏ: 694.000 tấn, chiếm 41,5%.

-Cá nổi đại dương (chủ yếu là cá ngừ): 120.000 tấn, chiếm 7,2%.

Trong đó, phân bố trữ lượng và khả năng khai thác giữa các vùng như sau:

-Vịnh Bắc Bộ: trữ lượng: 681.166 tấn, khả năng khai thác: 271.467 tấn (chiếm 16,3%).

-Biển Trung Bộ: trữ lượng: 606.399 tấn, khả năng khai thác 242.560 tấn(chiếm 14,3%).

-Biển Đông Nam Bộ: trữ lượng: 2.075.889 tấn, khả năng khai thác: 830.456 tấn (chiếm 49,3%).

-Biển Tây Nam Bộ: trữ lượng: 506.679 tấn, khả năng khai thác: 202.272 tấn (chiếm 12,1%).

Việt Nam tuy có vùng biển trải dài khắp cả nước nhưng sản lượng khai thác không đồng đều ở các vùng. Theo ước tính, vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam có tổng trữ lượng trên 3 triệu tấn cá, 50.000- 60.000 tấn tôm, 30.000- 40.000 tấn mực.

Mặc dù vậy, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng như đã nêu trên, trong thời gian hơn một thập kỷ qua, ngành thủy sản Việt Nam, đứng trước nhu cầu mạnh mẽ của thị trường thế giới cũng như nhu cầu về thực phẩm của đất nước đã có những bước phát triển ngoạn mục và trở thành một trong những ngành kinh tế then chốt của đất nước.

Ví dụ minh họa về một trong những vai trò của ngành dịch vụ

Ngành dịch vụ có vai trò như sau:

Ngành dịch vụ hiện nay là một ngành phát triển khá nhanh, ngành đã và đang thu hút nhiều nguồn nhân lực, đem lại nguồn lợi kinh tế lớn, giúp nâng cao chất lượng đời sống con người.

Đóng góp của ngành thủy sản trong tổng sản phẩm quốc dân

Theo số liệu thống kê, GDP của Việt Nam năm 1998 ước tính khoảng 368.692 tỷ đồng. Điều này tương ứng với mức GDP tính theo đầu người vào khoảng 270 đôla Mỹ.

-Nghề nuôi trồng thủy sản từ tự cung tự cấp đã đáp ứng được nhu cầu cho tiêu dùng trong và ngoài nước, đáng kể là sản lượng tôm nuôi phục vụ xuất khẩu của nước ta đứng vào khoảng thứ 5 trên thế giới; thủy sản xuất khẩu cũng đã được xác định là đối tượng chủ yếu để phát triển nuôi trồng.

-Công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu mà chủ yếu là công nghiệp đông lạnh thủy sản, với 164 cơ sở với tổng công suất là 760 tấn/ngày đã đóng vai trò to lớn hàng đầu về công nghiệp chế biến thực phẩm trong cả nước và thu hút nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu.

-Sự đóng góp đáng kể của khoa học công nghệ, trước hết phải kể đến kỹ thuật sinh sản nhân tạo để tạo nguồn tôm giống vào cuối những năm 80, cung cấp hơn 1 tỷ tôm giống các cỡ. Trong công nghiệp đánh cá, dần dần tạo ra các công nghệ để chuyển dịch cơ cấu nghề khai thác theo hướng hiệu quả cao, du nhập nghề mới từ nước ngoài để có thể vươn ra khai thác xa bờ.

-Hoạt động hợp tác quốc tế trên cả ba mặt: thị trường xuất khẩu, nguồn vốn nước ngoài và chuyển giao công nghệ đều đạt những kết quả khích lệ. Từ cơ chế “ lấy phát triển xuất khẩu để tự cân đối, tự trang trải, tạo vốn đầu tư cho khai thác và nuôi trồng “, qua các thời kỳ, Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa đến nay, sản phẩm thủy sản nước ta đã có mặt tại hơn 50 nước và vùng lãnh thổ với một số sản phẩm bắt đầu có uy tín trên các thị trường quan trọng. Trao đổi quốc tế trên lĩnh vực công nghệ đã góp phần để có kết quả vừa nêu. Là thành viên của NACA từ năm 1988, của SEAFDEC từ năm 1994, tham gia vào hoạt động của ICLARM, quan sát viên của INFOFISH, cũng như sự hiện diện của nghề cá thế giới. Đó là những nhân tố tạo tiền đề cho sự phát triển của chúng ta.

Dự tính toàn bộ sự đóng góp của ngành thủy sản đối với nền kinh tế quốc dân sẽ tăng từ mức hiện nay năm 1998 từ 18.434,6 tỷ đồng lên 40.000 tỷ đồng vào năm 2010. Tỷ trọng tương ứng của ngành thủy sản trong GDP sẻ giảm do có sự tăng trưởng mạnh trong các ngành khác của nền kinh tế. Song sự đóng góp của ngành thủy sản đối với ổn định xã hội và an toàn quốc gia là quan trọng vì tiềm năng phân phối thu nhập của ngành thủy sản ở các vùng nông thôn. Một bộ phận dân cư ở nông thôn, thường là các vùng nghèo vẫn tiếp tục sống dựa vào nghề cá và nuôi trồng thủy sản, bao gồm cả thiểu số ở vùng cao.

Vai trò của ngành thủy sản đối với hoạt động xuất khẩu.

Nếu trong GDP, ngành thủy sản đóng góp tương đối yếu thì ngành đã có sự bù đắp lại bởi sự đóng góp mạnh mẽ vào kim ngạch xuất khẩu cả nước. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta qua các năm đã không ngừng tăng lên, điều đó thể hiện rõ nét qua bảng số liệu sau:

Qua bảng số liệu trên đây ta thấy rằng: kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta đã tăng rất đáng kể qua các năm, trung bình mỗi năm tăng gần 100 triệu USD. Từ năm 1995 đến 1999, giá trị xuất khẩu thủy sản tăng 420,52 triệu USD, hay tăng 76,37%, đóng vai trò là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong một số năm qua và trong nhiều năm tiếp theo.

Giá trị xuất khẩu thủy sản các năm qua đã đóng góp một phần không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Từ năm 1995 đến 1999, năm nào kim ngạch xuất khẩu thủy sản cũng chiếm tỷ trọng trên dưới 10% so với tổng giá trị xuất khẩu, đặc biệt năm 1995, tỷ trọng này là 10,1%.

Xuất khẩu thủy sản chủ yếu là tôm và một số lượng lớn mực nang và mực đông. Năm 1998, tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu đạt 193.000 tấn (tăng 25% so với năm 1995), kim ngạch xuất khẩu đạt 858,68 triệu USD.

Dự kiến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sẽ tăng từ 971,12 triệu USD năm 1999 lên 1,1 tỷ USD năm 2000, 2tỷ USD năm 2005 và 2- 2,2 tỷ USD vào năm 2010.