D. “Giai cấp vô sản thế giới đoàn kết lại”.

Dòng chữ trên Quốc huy của Liên Xô là

Dòng chữ trên Quốc huy của Liên Xô là

A. “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”.

B. “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”.

D. “Giai cấp vô sản thế giới đoàn kết lại”.

Hiến pháp Liên Xô miêu tả: Quốc huy Liên Xô là biểu tượng cho quốc gia, bao gồm hình ảnh búa liềm trên quả địa cầu được vẽ trên nền những tia Mặt Trời, xung quanh là những bông lúa mì, với dòng chữ “Giai cấp vô sản thế giới đoàn kết lại”.

Xem thêm bài tập Lịch sử 11 CTST có lời giải hay khác:

Đại hội Xô viết toàn Nga lần Thứ hai, khai mạc đêm 25/10/1917 đã

Khi mới thành lập, Liên Xô gồm 4 nước Cộng hoà Xô viết là

Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917), nhiệm vụ hàng đầu của Chính quyền Xô viết là

Nội dung nào dưới đâu không phải là tư tưởng chỉ đạo của Lê-nin trong việc thành lập Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết?

Sau khi được thành lập, Chính quyền Xô viết ở Nga đã ban hành

Đối với Liên Xô, sự ra đời của Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết có ý nghĩa như thế nào?

Sự kiện nào dưới đây đánh dấu mốc hoàn thành của quá trình thành lập Nhà nước Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết?

Sau khi được thành lập, Chính quyền Xô viết ở Nga đã ban hành

Ở Ukraina, Lviv và Kiev đã tổ chức Ngày quốc khánh Ucraina vào ngày 22 tháng 1 năm 1989. Hàng ngàn người tập trung tại Lviv vì một dịch vụ tôn giáo trái phép ở phía trước Nhà thờ St. George. Tại Kiev, 60 nhà hoạt động đã gặp nhau trong một căn hộ ở Kiev để kỷ niệm tuyên bố của Cộng hòa Nhân dân Ucraina năm 1918. Vào ngày 11-12 tháng 2 năm 1989, Hội Ngôn ngữ Ucraina đã tổ chức Đại hội thành lập. Ngày 15 tháng 2 năm 1989, việc thành lập Ủy ban sáng kiến cho sự gia hạn của Giáo hội Chính thống Giáo phận người Ukraina đã được công bố. Chương trình và quy chế của phong trào đã được đề xuất bởi Liên minh Nhà văn Ukraine và đã được xuất bản trên tạp chí Literaturna Ukraina ngày 16 tháng 2 năm 1989. Tổ chức này báo trước những người bất đồng chính kiến Ucraina như Vyacheslav Chornovil.

Vào cuối tháng Hai, các cuộc biểu tình công khai lớn diễn ra tại Kiev để phản đối luật bầu cử, vào đêm trước ngày 26 tháng 3 tới Đại hội đại biểu Liên Xô, và kêu gọi từ chức Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Ukraine, Volodymyr Shcherbytsky, đắm mình trong vai trò "mastodon của sự trì trệ". Các cuộc biểu tình trùng hợp với chuyến thăm Ukraina của Tổng thống Xô viết Gorbachev. Vào ngày 26 tháng 2 năm 1989, từ 20.000 đến 30.000 người đã tham gia một dịch vụ tưởng niệm đại kết không được đề cập ở Lviv, đánh dấu kỷ niệm cái chết của nghệ sĩ Ucraina thế kỷ 19 và dân tộc Taras Shevchenko.

Vào ngày 4 tháng 3 năm 1989, Hội Tưởng niệm, cam kết tôn vinh các nạn nhân của chủ nghĩa Stalin và làm sạch xã hội của các thực hành của Liên Xô, được thành lập tại Kiev. Một cuộc biểu tình công khai được tổ chức vào ngày hôm sau. Vào ngày 12 tháng 3, một cuộc họp trước cuộc bầu cử được tổ chức tại Lviv bởi Liên đoàn Helsinki Ucraina và Hội Marian Myloserdia (lòng từ bi) đã bị phân tán dữ dội, và gần 300 người đã bị giam giữ. Vào ngày 26 tháng 3, các cuộc bầu cử đã được tổ chức tại đại hội công đoàn của đại biểu nhân dân; cuộc bầu cử được tổ chức vào ngày 9 tháng 4, 14 tháng 5 và 21 tháng Năm. Trong số 225 đại biểu Ucraina, hầu hết đều là người bảo thủ, mặc dù một số tiến bộ đã thực hiện việc cắt giảm.

Từ ngày 20 đến 23 tháng 4 năm 1989, các cuộc họp trước bầu cử đã được tổ chức tại Lviv trong bốn ngày liên tiếp, thu hút đám đông lên đến 25.000 người. Hành động này bao gồm một một giờ cảnh cáo bạo loạn tại tám nhà máy và tổ chức địa phương. Đây là cuộc đình công lao động đầu tiên tại Lviv từ năm 1944. Vào ngày 3 tháng 5, một cuộc biểu tình trước cuộc bầu cử đã thu hút 30.000 người tại Lviv. Vào ngày 7 tháng 5, Hội Tưởng niệm đã tổ chức một cuộc họp quần chúng tại Bykivnia, một khu mộ tập thể nạn nhân của người Ba Lan bị xử bắn vào thời Stalin. Sau khi một cuộc diễu hành từ Kiev đến trang khu mộ, một cuộc tưởng niệm đã được tổ chức.

Từ giữa tháng 5 đến tháng 9 năm 1989, các giáo sĩ người Công giáo Hy Lạp đã biểu tình phản đối Arbat của Moscow để kêu gọi sự chú ý đến hoàn cảnh của Giáo hội của họ. Họ đặc biệt tích cực trong phiên họp tháng 7 của Hội đồng Giáo hội Thế giới được tổ chức tại Moscow. Cuộc biểu tình kết thúc với các vụ bắt giữ của nhóm vào ngày 18 tháng 9. Vào ngày 27 tháng 5 năm 1989, hội nghị sáng lập của Hội Tưởng niệm khu vực Lviv đã được tổ chức. Vào ngày 18 tháng 6 năm 1989, ước tính 100.000 tín hữu đã tham gia vào các dịch vụ tôn giáo công cộng ở Ivano-Frankivsk ở miền tây Ukraine, đáp ứng lời kêu gọi quốc tế của Hồng y Myroslav Lubachivsky cho một ngày cầu nguyện quốc tế.

Vào ngày 19 tháng 8 năm 1989, Giáo xứ Chính thống Thánh Phêrô và Phao-lô của Nga thông báo sẽ chuyển sang Giáo hội Chính thống Giáo dân Do Thái của Ukraina. Vào ngày 2 tháng 9 năm 1989, hàng chục nghìn người Ukraine đã phản đối dự luật bầu cử dự trữ những ghế đặc biệt cho Đảng Cộng sản và cho các tổ chức chính thức khác: 50.000 người ở Lviv, 40.000 người ở Kiev, 10.000 người ở Zhytomyr, 5.000 người tại Dniprodzerzhynsk và Chervonohrad, và 2.000 ở Kharkiv. Từ ngày 8-10 tháng 10 năm 1989, nhà văn Ivan Drach được bầu làm thủ lĩnh Rukh, Phong trào Nhân dân Ukraine, tại đại hội thành lập của nó ở Kiev. Vào ngày 17 tháng 9, từ 150.000 đến 200.000 người đã hành quân ở Lviv, đòi hỏi sự hợp pháp hóa của Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ucraina. Vào ngày 21 tháng 9 năm 1989, việc khai quật một ngôi mộ tập thể bắt đầu ở Demianiv Laz, một bản chất bảo tồn ở phía nam của Ivano-Frankivsk. Vào ngày 28 tháng 9, Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Ukraine Volodymyr Shcherbytsky, một sự tiếp quản từ thời Brezhnev, đã được thay thế bởi Vladimir Ivashko.

Vào ngày 1 tháng 10 năm 1989, một cuộc biểu tình hòa bình từ 10.000 đến 15.000 người đã bị giải tán bởi lực lượng dân quân trước sân vận động Druzhba của Lviv, nơi một buổi hòa nhạc kỷ niệm sự thống nhất đất nước của người Ukraine đã được tổ chức. Vào ngày 10 tháng 10, Ivano-Frankivsk là nơi diễn ra cuộc biểu tình trước bầu cử với sự tham dự của 30.000 người. Vào ngày 15 tháng 10, hàng nghìn người tụ họp ở Chervonohrad, Chernivtsi, Rivne và Zhytomyr; 500 ở Dnipropetrovsk; và 30.000 ở Lviv để phản đối luật bầu cử. Vào ngày 20 tháng 10, các tín hữu và giáo sĩ của Giáo hội Chính thống Giáo chủ Tự trị Ukraina đã tham gia vào một hội đồng ở Lviv, là người đầu tiên kể từ khi bị cưỡng bức vào những năm 1930.

Vào ngày 24 tháng 10, Liên Xô Tối cao đã thông qua một đạo luật loại bỏ các ghế đặc biệt cho Đảng Cộng sản và các đại diện của các tổ chức chính thức khác. Vào ngày 26 tháng 10, hai mươi nhà máy ở Lviv đã tổ chức các cuộc đình công và các cuộc họp để phản đối sự tàn bạo của cảnh sát ngày 1 tháng 10 và chính quyền không muốn truy tố những người chịu trách nhiệm. Từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 10, hiệp hội môi trường Zelenyi Svit (bạn bè của trái đất - Ukraine) đã tổ chức đại hội thành lập, và vào ngày 27 tháng 10, Liên Xô Tối cao Ucraina đã thông qua một đạo luật loại bỏ tình trạng đặc biệt của đảng và các tổ chức chính thức khác.

Vào ngày 28 tháng 10 năm 1989, Hội đồng Xô Viết tối cao của Ucraina tuyên bố có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1990, tiếng Ukraina sẽ là ngôn ngữ chính thức của Ukraine, trong khi tiếng Nga sẽ được sử dụng để giao tiếp giữa các nhóm sắc tộc. Cùng ngày Hội thánh của Biến hình ở Lviv rời Giáo hội Chính thống Nga và tự tuyên bố là Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ucraina. Ngày hôm sau, hàng ngàn người đã tham dự một lễ tưởng niệm tại Demianiv Laz, và một điểm đánh dấu tạm thời được đặt để chỉ ra rằng một tượng đài cho "nạn nhân của những áp bức 1939-1941" sẽ sớm được dựng lên.

Vào giữa tháng 11, Hội Ngôn ngữ tiếng Ukraina Shevchenko đã chính thức được đăng ký. Vào ngày 19 tháng 11 năm 1989, một cuộc tụ tập công khai tại Kiev đã thu hút hàng ngàn người tang lễ, bạn bè và gia đình đến cuộc nổi dậy ở Ukraine của ba tù nhân của Trại Gulag khét tiếng số 36 tại Perm ở Dãy núi Ural: các nhà hoạt động nhân quyền Vasyl Stus, Oleksiy Tykhy, và Yuri Lytvyn. Phần còn lại của họ được tái tổ chức tại Nghĩa trang Baikove. Vào ngày 26 tháng 11 năm 1989, một ngày cầu nguyện và nhịn ăn được Đức Hồng y Myroslav Lubachivsky tuyên bố, hàng ngàn tín hữu ở miền tây Ukraine đã tham gia vào các buổi lễ tôn giáo giữa Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Tổng thống Liên Xô Gorbachev. Vào ngày 28 tháng 11 năm 1989, Hội đồng tôn giáo SSR của Ucraina ban hành nghị định cho phép các hội thánh Công giáo Ucraina đăng ký làm tổ chức pháp lý. Nghị định này được công bố vào ngày 1 tháng 12, trùng với một cuộc họp tại Vatican giữa giáo hoàng và tổng thống Liên Xô.

Vào ngày 10 tháng 12 năm 1989, sự chấp hành chính thức đầu tiên của Ngày Nhân quyền Quốc tế được tổ chức tại Lviv. Vào ngày 17 tháng 12, khoảng 30.000 người đã tham dự một cuộc họp công cộng được tổ chức tại Kiev bởi Rukh để tưởng nhớ người đoạt giải Nobel Andrei Sakharov, người đã chết vào ngày 14 tháng 12. Vào ngày 26 tháng 12, Liên Xô tối cao của Ucraina SSR đã thông qua một đạo luật chỉ định Giáng sinh, Phục sinh và Ngày lễ chính thức của Chúa Ba Ngôi.[23]

Vào tháng 5 năm 1989, một người bất đồng chính kiến Liên Xô, Mustafa Dzhemilev, được bầu làm lãnh đạo Phong trào Quốc gia Crimean Tatar mới thành lập. Ông cũng lãnh đạo chiến dịch đòi trả lại vùng Crimean cho người Tatars ở Crimea sau 45 năm dân tộc này sống ở vùng đất khác.

Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới xây dựng CNXH và Chủ nghĩa cộng sản. Là quốc gia hùng mạnh, nên sự xuất hiện của nhà nước Liên Xô XHCN đã ảnh hưởng to lớn đến tiến trình lịch sử của nhân loại.Trong thế kỷ XX, sau khi Liên Xô xuất hiện, mọi sự kiện lớn của thế giới – nhiều hay ít – đều có dấu ấn và chịu ảnh hưởng của Liên Xô.

Lịch sử Cách mạng và sự hình thành

Sự hình thành Liên Xô gắn liền với sự sụp đổ của Đế quốc Nga trong Chiến tranh thế giới thứ I và hoạt động của Đảng Cộng sản Nga do V.I.Lênin đứng đầu.Vào đầu thế kỷ XX, xã hội Nga ẩn chứa nhiều mâu thuẫn gay gắt không được giải tỏa; nước Nga lại là nơi có phong trào Marxist cấp tiến mạnh nhất, do Lênin đứng đầu với Đảng Bolshevik chủ trương làm cách mạng XHCN, để xây dựng Chủ nghĩa cộng sản, theo học thuyết của Karl Marc.

Ngày ngày 7/11/1917, V. I. Lênin và các đảng viên Bolshevik Nga đã lãnh đạo các Xô viết làm Cách mạng tháng Mười, lập chính quyền Xô viết của công - nông -binh đầu tiên trên thế giới. Đây là sự kiện quan trọng, có ý nghĩa thời đại đối với lịch sử nhân loại. Sự kiện vĩ đại mà sau này đã ảnh hưởng to lớn tới các cuộc cách mạng XHCN và phong trào giải phóng dân tộc nhiều quốc gia, từ châu Âu, châu Á, Châu Phi, tới Mỹ Latinh, trong đó có Việt Nam.

Ngay sau Cách mạng tháng Mười, nước Nga rơi vào nội chiến cực kỳ đẫm máu. Đến cuối năm 1920, về cơ bản Hồng quân đã giành chiến thắng, quân bạch vệ bị thất bại. Ngày 30/12/1922, 15 nước cộng hòa gia nhập Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết (gọi tắt là Liên Xô). Ngay sau khi thành lập Liên bang Xô Viết; nhân dân Liên xô dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới, cuộc sống XHCN một xã hội không có người bóc lột người. Cả đất nước như một công trường khổng lồ, nên chỉ sau một thời gian ngắn, đã đem lại kết quả tốt: Nạn đói bị đẩy lùi, công nghiệp, thương mại được phục hồi, tình hình nông thôn và thành thị được ổn định, xã hội có tích luỹ và đời sống người dân tốt lên nhanh chóng. Sau khi Lênin mất (năm 1924), I.V. Stalin thay thế V.I.Lênin lãnh đạo đất nước Xô-viết tiến hành công nghiệp hóa XHCN. Kết quả là Liên Xô đã trở thành một nước công nghiệp đứng thứ 2 trên thế giới trong một thời gian rất ngắn (điều này là nền tảng kinh tế cho chiến thắng của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ II). Mặt khác, những nhân tố mới được giải phóng của cuộc sống mới XHCN (thanh toán mù chữ và giáo dục miễn phí cho trẻ em, hệ thống y tế miễn phí, thực hiện bình đẳng nam nữ, chia ruộng đất cho nông dân, quốc hữu hóa tài nguyên và các nhà máy, mức sống người dân ngày càng được nâng cao...) đã tạo động lực to lớn, mạnh mẽ cho công cuộc xây dựng đất nước. Một số thành tựu của Liên Xô về các lĩnh vực: Giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội...thời gian này đã vượt xa các nước phương Tây như: Anh, Pháp, Mỹ; Đức...Giai đoạn tiến hành Công nghiệp hóa đất nước; Liên Xô đã xây dựng được một loạt các tổ hợp công nghiệp khổng lồ; các nhà máy luyện thép, luyện kim lớn và nhiều khu công nghiệp ở Moskva, Leningrat, Volgograd, Chelyabinsk, Kharkov....Năm 1935, Liên Xô đã khởi công xây dựng tàu điện ngầm ở Moskva với chiều dài hàng chục km. Tới năm 1940, sản lượng công nghiệp của Liên Xô đã tăng gấp 7,7 lần so với năm 1913, Công nghiệp Liên Xô đã chiếm 77,4% cơ cấu nền kinh tế và chiếm 10% toàn thế giới. Cho đến lúc đó, thế giới chưa từng chứng kiến nhịp độ tăng trưởng nào nhanh và ngoạn mục như vậy. Đến trước Chiến tranh thế giới thứ II, từ một nước có nền sản xuất lạc hậu, Liên Xô đã vươn lên trở thành cường quốc công nghiệp thứ 2 thế giới và đứng đầu châu Âu, vượt qua Anh - Pháp- Đức (chỉ đứng sau Mỹ).Thành quả to lớn này đã cho phép Liên Xô chiến đấu và cuối cùng giành chiến thắng vĩ đại trong Chiến tranh thế giới thứ II (1939-1945).

Vai trò của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ II

Nói đến Liên Xô, ngoài ý nghĩa là nước đầu tiên xây dựng CNXH trên thế giới với đà tăng trưởng hết sức ngoạn mục và nhiều chính sách xã hội nhân văn tốt đẹp, so với các nước Tư bản chủ nghĩa; song bên cạnh đó, cũng phải nói đến vai trò to lớn, quyết định của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ II, như một bằng chứng là quốc gia đã góp phần quan trọng và quyết định để cứu nhân loại thoát khỏi thảm họa phát xít (do các nước Đức-Ý-Nhật gây ra).

Ngày 22/6/1941 nước Đức Quốc xã tấn công Liên bang Xô viết và bắt đầu "Chiến tranh vệ quốc vĩ đại" của Liên Xô (1941–1945). Liên Xô tham gia vào Khối Liên minh chống phát xít gồm:Anh, Pháp,Mỹ, Úc, New Zealand, Canada, Trung Quốc... Người dân Xô viết đã lao động tự giác, quên mình với nỗ lực phi thường để phục vụ cho chiến tranh. Phần lớn các dân tộc thuộc Liên bang Xô viết đã đoàn kết, hiệp lực tin tưởng vào Đảng cộng sản Liên Xô và lãnh tụ Stalin để đẩy lùi họa phát xít. Thời gian đầu, do bị bất ngờ, quân đội Xô-Viết tuy thất bại, song Hồng quân Liên Xô đã chống trả kiên cường, gây cho quân Đức những tổn thất to lớn. Đến cuối năm 1941, họ đã chặn đứng được quân đội Đức tại cửa ngõ Thủ đô Moskva.Trong các năm 1942 – 1943, Liên bang Xô viết với sự giúp đỡ của quân đồng minh Anh –Pháp-Mỹ, đã tạo được bước ngoặt cơ bản của chiến tranh bằng các chiến thắng Stalingrad và Kursk. Cuối năm 1944, Liên Xô đã giải phóng toàn bộ đất đai của mình; đánh đuổi quân Đức trên lãnh thổ các nước Đông Âu, Trung Âu; Tháng 4 năm 1945, quân đội Xô viết công phá Berlin. Nước Đức Quốc xã sụp đổ và đầu hàng Quân đội Liên Xô vô điều kiện.

Ngay sau chiến thắng đối với Đức, Liên Xô tham chiến chống Nhật Bản và đầu tháng 8 năm 1945, đã dễ dàng đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật Bản tại Mãn Châu. Ngày 15/8/1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng Minh và Chiến tranh thế giới thứ II chấm dứt.

Mặc dù có những khó khăn to lớn do hậu quả chiến tranh để lại, song Liên Xô bước ra khỏi chiến tranh với tư thế của người chiến thắng; niềm phấn khởi tự hào lớn lao của nhân dân đối với cường quốc XHCN của mình; đã tạo tiền đề quan trọng để Liên Xô mạnh lên thành siêu cường thế giới sau thế chiếnthứ II.

Liên Xô phục hồi, mở rộng hệ thống Xã hội chủ nghĩa và trở thành cường quốc thế giới

Sau Chiến tranh thế giới thứ II, đất nước Liên Xô bị tàn phá hết sức nặng nề. Chiến tranh thế giới thứ II đã làm cho khoảng 26 triệu người Xô viết thiệt mạng, 1.710 thành phố, thị trấn; hơn 70.000 làng mạc bị phá huỷ, 32.000 cơ sở công nghiệp, 98.000 nông trang tập thể, nhiều công trình văn hóa của Liên bang Xô viết bị phá huỷ, hơn 25 triệu người mất nhà cửa. Tổng cộng, Liên Xô mất gần 30% tài sản quốc gia và gần 1/8 dân số. Tổn thất vật chất ước tính là 2,5 nghìn tỷ rúp, tương đương với 30% toàn bộ của cải của đất nước. Sự phát triển các ngành kinh tế quan trọng bị thụt lùi tới 10 - 15 năm. Trước những tổn thất nặng nề đó, Chính phủ Liên Xô đề ra kế hoạch 5 năm nhằm khôi phục nền kinh tế. Đến năm 1955, GDP của Liên Xô đã đạt khoảng 136 tỷ đôla, đứng thứ 2 thế giới chỉ sau Hoa Kỳ (381 tỷ đôla).

Sau Chiến tranh thế giới thứ II (năm 1945), Liên Xô giúp các nước ở Châu Âu, Châu Á, châu Mỹ - Latinh thành lập nhà nước XHCN, đó là: Tiệp Khắc; Ba Lan, Nam Tư; Bungari; Hungari; Rumani; Cộng hòa Dân chủ Đức, Anbani, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Mông Cổ và Cu-ba... Đến năm 1960, trên thế giới đã hình thành phe XHCN, do Liên Xô đứng đầu. Đồng thời nền kinh tế Liên Xô phát triển mạnh mẽ; Khoa học - kỹ thuật, quân sự đã có bước đột phá: chế tạo tên lửa đạn đạo, bom nguyên tử, nhà máy điện nguyên tử v.v.. Công nghệ vũ trụ đã có bước phát triển vượt bậc: Liên Xô đã phóng tàu vũ trụ đầu tiên trên thế giới (vào năm 1959) và đưa con người đầu tiên vào vũ trụ (năm 1961). Những sự việc này ngoài những ý nghĩa quân sự, chiến lược, kinh tế, còn có ý nghĩa tinh thần rất to lớn: nó đánh dấu Liên Xô đã trở thành siêu cường trên thế giới với mục tiêu vươn lên vượt qua Hoa Kỳ.

Theo tài liệu của Chính phủ Mỹ thống kê về kinh tế các nước trên thế giới, năm 1975, tổng sản lượng kinh tế của Liên Xô đã đạt 943,5 tỷ USD (đứng thứ 2 thế giới, sau Hoa Kỳ). Ngoài ra những chỉ số sau đã chứng tỏ công dân Liên Xô được hưởng mức phúc lợi xã hội và ưu đãi rất cao so với các nước cùng thời điểm: Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới quy định chế độ làm việc 8 giờ/ngày; Người dân được đưa tới nơi làm việc bằng phương tiện công cộng mà không phải trả tiền; Người dân được miễn học phí tại mọi cơ sở giáo dục, từ mẫu giáo cho tới đại học; Nhà nước đảm bảo các sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học đều có việc làm sau khi nhận bằng; Người dân được khám & chữa bệnh miễn phí hoàn toàn. ...

Trên bình diện quốc tế, là nước XHCN đứng đầu và hùng mạnh nhất bấy giờ, Liên Xô đã trở thành đối trọng cân bằng với khối Tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu; là biểu tượng, là thành trì, là chỗ dựa “tinh thần và vật chất to lớn” trong phe XHCN và là nguồn viện trợ chính cho các phong trào giải phóng dân tộc tại các nước châu Á- châu Phi - châu Mỹ latinh.

Đối với cách mạng Việt Nam, Cách mạng Tháng Mười Nga và Liên bang Xô Viết có ý nghĩa và ảnh hưởng vô cùng to lớn, với bài học kinh nghiệm sâu sắc trên nhiều phương diện, cả về lý luận lẫn thực tiễn, trong thời kỳ trước; sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cả trong Cách mạng Tháng 8 và hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, cũng như trong cách mạng XHCN và công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày hôm nay.

Thật vậy, ngay từ khi bôn ba đi tìm đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách nô lệ lầm than (đầu thế kỷ XX), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh phát hiện ra giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga và Chủ nghĩa Mác-Lê-nin và Người quyết tâm đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga. Năm 1920, sau khi đọc Sơ thảo “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin đăng trên Báo L’Humanité (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra “cẩm nang thần kỳ” cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Khi nói về sự kiện này, Người nhớ lại: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ và tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong phòng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta...”. Tiếp theo, trong quá trình hoạt động cách mạng (trước năm 1945), được sự quan tâm của Liên Xô và Quốc tế cộng sản, nhiều chiến sĩ cách mạng tiền bối của Việt Nam đã được cử sang Liên Xô học tập như: Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai ... để sau nay về nước chỉ đạo cách mạng Việt Nam; phát động toàn dân, giành chính quyền về tay công - nông; lập nên nước Việt Nam Dân chủ công hòa (2/9/ 1945).

Đặc biệt, nhờ sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của Đảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô anh em về mọi mặt vật chất và tinh thần, trong đó có nhiều vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng (kể cả việc đào tạo nhiều thế hệ cán bộ, chuyên gia cho Việt Nam và cử nhiều đoàn chuyên gia sang Việt Nam công tác..); để giúp Việt Nam đứng vững và tiếp tục đánh thắng các đế quốc lớn như: Pháp, Nhật, Mỹ, thu giang sơn về một mối, đưa dân tộc ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới. Một minh chứng hùng hồn nữa là sau khi Việt Nam thống nhất đất nước (tháng 4 năm 1975), Đảng và nhân dân Liên Xô vẫn tiếp tục sát cánh với Đảng ta, nhân dân ta trên bước đường xây dựng đất nước, giúp Việt Nam nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, sớm thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu: với nhiều công trình mang tầm vóc thế kỷ, mang dấu ấn thời đại; để cho đến hôm nay; nhiều công trình của Việt Nam được nhân dân Liên Xô hỗ trợ, giúp đỡ, dựng xây vẫn đang phát huy giá trị to lớn; góp phần vào tăng trưởng kinh tế cho Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Tròn một thế kỷ đã trôi qua, kể từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, tuy đời sống chính trị xã hội thế giới có những biến đổi sâu sắc (kể cả việc Liên Xô và một số nước XHCN ở châu Âu lâm vào khủng hoảng và tan rã đầu những năm 90 của thế kỷ XX), nhưng tầm vóc, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn nguyên giá trị đối với nhân loại tiến bộ trên thế giới. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất đứng lên tự giải phóng…Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.

Người viết bài này đã từng có thời gian sống và học tập tại Liên Xô trong thập niên 70 – 80 của thế kỷ XX. Cũng như nhiều cán bộ, học sinh Việt Nam sang Liên Xô công tác, học tập, làm việc, chúng tôi sẽ không bao giờ quên được những tình cảm và sự đùm bọc rất chân tình, nồng thắm, thủy chung, bền chặt của người dân Liên Xô, đất nước Liên Xô dành cho mình và tổ quốc Việt Nam yêu dấu trong thời kỳ chiến tranh giữ nước, cũng như xây dựng hòa bình sau này (với nhiều công trình thế kỷ mang dấu ấn Việt-Xô, như: Cầu Thăng Long; Nhà máy Thủy Điện Hòa Bình, Nhà máy nhiệt điện Phả Lại; Cung Lao động hữu nghị Việt -Xô; Bệnh viện hữu nghị Việt -Xô; Đại học Bách khoa Hà Nội). Đó là những tình bạn, tình đồng chí, anh em XHCN thắm thiết nhất, trách nhiệm, cao thượng và đầy đủ nhất ... vượt cả không gian và thời gian, đã làm nên trang sử vàng của tình hữu nghị các dân tộc anh em trong phe Xã hội chủ nghĩa.

Cuối năm 1978, Liên Xô đã ký thỏa thuận với Việt Nam về việc xây dựng và cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật tại Cam Ranh. Theo đó, quân cảng này là nơi tiếp nhận tàu chiến, tàu ngầm, tàu hộ tống cùng nhiều máy bay trinh sát, vận tải và máy bay mang tên lửa của Hải đoàn tác chiến cơ động số 17 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Nếu Liên Xô đưa tàu ngầm và các chiến hạm mang đầu đạn hạt nhân vào quân cảng Cam Ranh thì ta từ chối, vì sẽ làm phức tạp thêm, hơn nữa trong hiệp định ký kết giữa hai nước không ghi. Theo quy định trong Hiệp định, tại quân cảng Cam Ranh cùng lúc có thể tập trung từ 8-10 tàu chiến Liên Xô, 4-8 tàu ngầm có khu neo nổi và tối đa 6 tàu hộ tống. Tại sân bay cùng lúc có thể tiếp nhận từ 14-16 máy bay mang tên lửa, 6-9 máy bay trinh sát do thám và 2-3 máy bay vận tải. Tùy theo tình hình chiến sự cụ thể, số lượng máy bay và tàu chiến có thể tăng lên theo thỏa thuận giữa hai Bộ Quốc phòng Liên Xô và Việt Nam.

Ngày 2/5/1979, Chính phủ Liên Xô và Việt Nam đã ký hiệp định về việc sử dụng Cam Ranh làm Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật cho Hạm đội Thái Bình Dương của quân đội Liên Xô trong 25 năm. Mùa hè năm đó, tàu ngầm nguyên tử phóng ngư lôi K-45 đã neo đậu tại Cam Ranh, sau đó ít lâu, các máy bay hải quân của hạm đội Thái Bình Dương bắt đầu hạ cánh. Tháng 12/1979, Đô đốc S.G.Gorshkov – Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô đã đến Hà Nội để đặt quan hệ công tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam. Sau đó, ông đã dành một ngày thăm căn cứ Cam Ranh, giống y như cách Tổng thống Mỹ Johnson đã tới để ngắm nhìn địa thế “sông núi nước Nam” 10 năm về trước.

Phân đội đầu tiên của Hạm đội Thái Bình Dương gồm 54 người đến đây tháng 4/1980 và tháng 8 năm đó quân số được bổ sung thêm 24 người thuộc bộ phận thông tin liên lạc. Thi hành lệnh của Bộ tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô và Chỉ thị số 13/1/0143 của Cục Tham mưu hạm đội Thái Bình Dương ngày 28/8/1980, Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật đã được thành lập trên bán đảo Cam Ranh mang phiên hiệu đơn vị 31350. Bộ Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và Chính phủ Liên Xô đã giao cho Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật 922 nhiệm vụ làm giảm nhẹ đáng kể áp lực cho Hạm đội Thái Bình Dương nói riêng và toàn bộ Hải quân Liên Xô nói chung trong việc cung cấp dự trữ cần thiết cho các chiến hạm và tàu hộ tống đang làm nhiệm vụ tại Biển Đông. Cam Ranh trở thành căn cứ hải quân lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài, căn cứ duy nhất bên bờ Biển Đông, nơi cách cảng gần nhất của Nga 2.500 hải lý.

Từ mùa Thu năm 1983 đến tháng 8/1991, hải đoàn cơ động số 17 triển khai tại Cam Ranh, từ tháng 8/1991 đến tháng 12/1991 được thay thế bằng hải đoàn cơ động số 8 và sau đó là hải đội tàu hỗn hợp 119. Thời điểm năm 1986, trên sân bay triển khai trung đoàn không quân hỗn hợp độc lập gồm 4 máy bay Tu-95, 4 chiếc Tu-142, phi đoàn máy bay Tu-16 khoảng 20 chiếc các loại, phi đoàn MiG25 khoảng 15 chiếc, hai máy bay vận tải An-24 và 3 máy bay lên thẳng Mi-8. Ngoài ra trung đoàn còn quản lý và chỉ huy căn cứ chống tàu ngầm, tiểu đoàn tên lửa và tiểu đoàn kỹ thuật.

Tháng 2/1984, theo đề nghị của phía Việt Nam, Chính phủ Xô Viết đã quyết định khôi phục và xây dựng thêm một loạt công trình tại căn cứ Cam Ranh. Việc xây dựng Cam Ranh bước sang một giai đoạn mới, chuyển từ hình thức tự hạch toán kinh tế sang hình thức đấu thầu khoán gọn, bắt đầu giai đoạn xây dựng kiên cố thay cho các kết cấu lắp ghép tạm thời. Phó tổng giám đốc Công ty Xây lắp Liên Xô tại Việt Nam giai đoạn 1987-1989 Evgeny Stepanovich Bobrenev đã kể lại trong cuốn “Liên Xô – một từ không bao giờ quên” (Nguyễn Đình Long dịch) rằng, Cục kỹ thuật xây dựng nước ngoài thuộc Bộ Quốc phòng Liên Xô, đơn vị có nhiều kinh nghiệm xây dựng các công trình ở hơn 60 nước trên thế giới đảm nhiệm việc lựa chọn và đưa chuyên gia đến Cam Ranh. Họ là những chuyên gia tài năng của các đơn vị trong và ngoài quân đội được các tổ chức Đảng, Đoàn giới thiệu, được chở sang bằng đường hàng không qua Moscow hay Vladivostok theo hành trình Moscow – Taskhent – Karachi (đôi khi là Bombay) – Calcutta – Hà Nội – Cam Ranh.

Trên cơ sở Hiệp định ký giữa Liên Xô và Việt Nam ngày 20/4/1984, hai bên đã ký hợp đồng xây dựng cụm đài rađar số ba, là công trình viện trợ không hoàn lại. Tính chung từ năm 1984 đến năm 1987, Tổng Công ty Xây lắp Liên Xô đã xây dựng tổng cộng 28 nhà ở và công trình chuyên dụng các loại. Lúc đó tổng số người Liên Xô sống trong khu quân sự là 6.000 người, kể cả công nhân xây dựng. Theo thỏa thuận trong mục 71 của Hiệp định ký ngày 20/4/1984, các công trình xây dựng xong sẽ bàn giao cho phía Việt Nam sử dụng. Các hạng mục đầu tiên được xây dựng xong từ tháng 12/1987, sau đó các chuyên gia Liên Xô bắt đầu sử dụng theo hình thức thuê miễn phí.

Có thể thấy rằng, về cơ bản, các công trình được Liên Xô – Nga xây dựng ở Cam Ranh bao gồm: Khu nhà ở của Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật, trong đó có sở chỉ huy đơn vị 31350 và doanh trại cho quân số biên chế của đơn vị, nhà ăn 250 chỗ, lò bánh mỳ, tổ hợp tắm hơi – giặt là, CLB, trường phổ thông số 183, 18 tòa nhà ở, kho tổng hợp lưu giữ và cấp phát vật tư, đội xe (gồm cả xe chuyên dụng); vùng bến nhỏ; bể chứa ngầm thể tích 14.000m3 dùng để chứa nhiên liệu; hai hầm lạnh dung tích 270 tấn dùng để chứa thực phẩm lưu trữ; 12 kho khung sắt dùng để chứa các loại vật tư khác nhau; Hai bể lọc giếng khoan, một dùng cho sinh hoạt, một dùng cho chiến hạm và các tàu hộ tống; Trạm phát điện trung tâm công suất 24.000kW cấp điện cho tất cả các công trình thuộc khu quân sự và của Việt Nam trên bán đảo.

Khi từ biệt Cam Ranh, người Nga đã chở đi 588 người, 819 tấn hàng trong đó có 50 chiếc ôtô và xe chuyên dụng, 190 tấn dầu diezel, 133 tấn dầu mỡ các loại, vũ khí đạn dược cũng như tài liệu lưu trữ và tài liệu mật, bằng cả đường hàng không và đường biển. Đồng thời, người Nga bàn giao cho phía Việt Nam 57 tòa nhà và công trình thuộc căn cứ, 85km đường dây tải điện lưới, 62km đường điện cáp, 25km công trình ngầm, 250m cầu cảng, sân bay và hệ thống quản lý kho. Đại tá quân dự bị, cựu binh Cam Ranh kể lại rằng, cho đến tận năm 1992, khi Liên Xô tan rã, thủ tục ra vào khu quân sự vẫn do phía Việt Nam quy định. Theo thỏa thuận thì mỗi tháng chỉ 4 chuyến xe được đi ra ngoài theo kế hoạch định trước với số lượng người hạn chế, chủ yếu là dành cho thủy thủ Hạm đội Thái Bình Dương. Còn số nhân viên kỹ thuật của Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật thì do “nhiều yếu tố” nên ra “vùng tự do” là vi phạm luật.

Những năm đầu thập niên 1990, căn cứ này chủ yếu do phía Việt Nam sử dụng. Năm 1994, phó Thủ tướng Yuri Yarov đã đến thăm vịnh Cam Ranh. Năm 1995, nhờ có trung tâm thông tin ở căn cứ này mà nhiều hoạt động vận chuyển ma túy đã bị bắt giữ. Năm 1993 Nga đã ký hợp đồng kéo dài thời gian sử dụng căn cứ quân sự ở vịnh Cam Ranh. Các thiết bị bắt sóng ở đây dùng để theo dõi các trao đổi thông tin của Trung Quốc ở vùng biển Đông. Theo giới quân sự Mỹ, vị trí của Cam Ranh khá lý tưởng để kiểm soát mọi hoạt động xung quanh đảo Hải Nam, một địa điểm chiến lược đặc biệt đối với Trung Quốc.

Ngày 12/12/1995 cũng xảy ra tai nạn máy bay khủng khiếp tại đây. Ba trong 5 chiếc máy bay tiêm kích Su-27 của phi đội “Dũng sĩ Nga” trên đường trở về Nga sau khi trình diễn ở Malasia đã ghé qua sân bay Cam Ranh để tiếp nhiên liệu thì đã gặp tai nạn khi hạ cánh. Đại tá Vanyukov nhớ tới những đồng đội đã hy sinh khi làm nhiệm vụ ở Cam Ranh như sau: Chúng ta cần giữ ký ức về họ. Hãy tưởng nhớ tất cả mọi người: nhớ vị đô đốc hải quân đã hy sinh trong tai nạn ở Sân bay Cam Ranh, những phi công cất cánh bay đi mà không thấy trở về; nhớ những chiến sỹ hải quân hy sinh khi làm nhiệm vụ, những chuyên gia dân sự chết vì các bệnh nhiệt đới, nhớ cả cậu con trai viên quản trị trưởng còn ở tuổi đến trường đã chết vì quả lựu đạn Mỹ để lại. Chúng ta vẫn sống khi ký ức về chúng ta vẫn còn.

Trong hồi ức Cam Ranh, Trung tướng V.F. Aistov – Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học tự nhiên Nga và ông M.Z. Nagumanov – Phó Tổng Giám đốc Tổng Cty Xây lắp Liên Xô thời kỳ 1987-1989 vẫn nhớ chi tiết một vị tướng hàng đầu của Việt Nam đã hứng nước thẳng từ vòi của hệ thống lọc và xử lý sinh học nước khoan ngầm của căn cứ để uống, một hành động mà họ cho là thể hiện lòng tin của lãnh đạo cao cấp Việt Nam đối với các chuyên gia Liên Xô và thành quả lao động của họ. Hai ông còn nhớ rõ các ca sĩ, nghệ sĩ hàng đầu của Việt Nam thời điểm đó như Ái Vân, Thanh Thanh Hiền, Vương Linh- Đặng Hùng… và tên các tiết mục mà họ đã mang đến Cam Ranh để biễu diễn phục vụ các bạn Liên Xô.

Đại tá quân dự bị S.I. Urbanovich nhắc lại kỷ niệm lần đến ban chỉ huy trung đoàn bảo vệ của phía Việt Nam để xin cho các phụ nữ của căn cứ được ra thị trấn Mỹ Ca gần đó chơi nhân dịp ngày 8/3. Các chỉ huy trung đoàn xếp ra bàn hai bình ba lít rượu truyền thống của lính thủy đánh bộ là rượu ngâm rắn biển và sò huyết, còn đồ nhắm thì chỉ có xoài xanh thái lát chấm muối và một xô đá lạnh. Và không nhớ là chúng tôi uống đến cốc rượu thứ bao nhiêu khi tôi muốn biết về hướng giải quyết đề nghị của mình thì được câu trả lời: Giờ nào việc nấy. Và cuối cùng, sau những lời nói bóng gió, tôi nghe thấy câu: Đồng chí Liên Xô thân mến, việc này chúng tôi giải quyết lâu rồi. Nhắc lại các sự kiện ngày ấy, tôi luôn tin tưởng rằng mối quan hệ anh em thân thiết giữa quân nhân hai nước Việt – Nga sẽ vượt qua được mọi rào cản của ngoại giao quan liêu.

Cựu thủy thủ công binh V.M. Koval thì lại nhớ đến một chi tiết rất người là những lần “ăn trộm” dừa để giải khát: Các bạn Việt Nam đã từng phải lấy dây kẽm gai quấn quanh gốc dừa nhưng chúng tôi vẫn hái được. Sáng ra dưới gốc dừa là cả một đống vỏ trái dừa đã bị uống hết nước. Một năm quân ngũ “vui vẻ” của tôi trôi qua thật nhanh trên đất nước nóng bức nhưng tuyệt vời đến mức làm chúng tôi đem lòng yêu mến này, yêu và gọi Việt Nam của tôi. Và mỗi lần trò chuyện khi nhắc đến đất nước này, tôi lại nói: Còn ở Việt Nam chúng tôi thì.

Năm 2000, hải quân Nga đã chính thức thông báo, hiện nay căn cứ này không còn quan trọng như trước nữa. Ngày 24/7/2001 Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergey Ivanov thông báo: Nga cần phải rời khỏi Cam Ranh. Năm 2002, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ra lệnh đóng cửa căn cứ này sau khi Hà Nội và Moscow thống nhất được việc chấm dứt hợp đồng cho Nga thuê miễn phí Dù còn 3 năm nữa mới hết hợp đồng thuê Cam Ranh. Ngày 2/5/2002, hai bên ký biên bản tiếp nhận – bàn giao các hạng mục tại Cam Ranh. Ngày 3/5, chuyến bay vận tải quân sự IL-76 cuối cùng chở các chuyên gia và các quân nhân Nga về nước.

Ngày 4/5/2002 – ngày cuối cho sự hiện diện quân sự của Nga tại Việt Nam – các quân nhân, chuyên gia Nga rời PMTO 922 trên ôtô trong tiếng nhạc bài “Các sĩ quan”. Còn các chiến sĩ Vùng 4 Hải quân Việt Nam đứng nghiêm trên cầu cảng để tiễn những người bạn Nga. Trên boong “Sakhalin-09”, Chuẩn đô đốc Eryomin, chỉ huy trưởng cuối cùng của căn cứ giơ tay chào những người đồng đội Hải quân Việt Nam. Chuẩn đô đốc Eryomin trong cương vị Chỉ huy trưởng Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật 922 của Cam Ranh nhận định, căn cứ quân sự trước đây của Mỹ trên bán đảo Cam Ranh – Khánh Hòa đã thu hút sự chú ý của Liên Xô bằng chính vị trí địa lý của nó, xét về mọi phương diện thì hoàn toàn ưu việt cho việc triển khai một căn cứ hải quân. Nó cho phép khống chế các eo biển Malaysia và Philippines, có thể tiến hành trinh sát điện tử Biển Đông, biển Philippines… thậm chí tới tận khu vực vịnh Pécxích hay vùng bắc Ấn Độ Dương. Bán đảo Cam Ranh bọc trong mình hai vịnh Bình Ba và Cam Ranh, nơi không chịu ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết, có độ lớn và sâu để có thể neo đậu mọi loại chiến hạm và tàu hộ tống, kể cả tàu sân bay.

Trong thời gian ở lại, phía Liên Xô đã làm một số việc tùy tiện như khai thác đá ở các núi trong vịnh… không xin ý kiến và trao đổi với phía Việt Nam. Nhận được tin, Tướng Lê Đức Anh với cương vị là Tổng tham mưu trưởng lập tức tới Cam Ranh. Sau khi thị sát, ông phê bình: Để họ làm thế này thì đây sẽ bị sa mạc hóa. Không được. Mỗi cục đá ở đây phải quý như một cục vàng. Về tới Hà Nội, Tướng Lê Đức Anh báo cáo với Tổng Bí thư Lê Duẩn và Bộ Chính trị, kiên quyết không cho phía Liên Xô phá núi lấy đá và khai thác cát trong vùng vịnh. Trưởng đoàn chuyên gia và tùy viên quân sự Liên Xô phản đối. Tướng Lê Đức Anh nói: Tôi sẽ đảm bảo có đá cho các anh” và ông cho phép mở con đường dài 30km vào mỏ đá trong đất liền, phía Liên Xô và người dân rất phấn khởi.

Cũng trong thời gian này, tình hình biên giới phía Bắc nước ta vô cùng nóng bỏng, có những “trọng điểm” Tướng Lê Đức Anh mới chỉ tới hai lần. Nhưng với Cam Ranh, ông đã thị sát tới bốn lần bởi trong mắt Tướng Lê Đức Anh, vị trí Cam Ranh vô cùng quan trọng trong hiện tại cũng như tương lai. Nó gắn liền tới sự tồn vong và thịnh vượng của đất nước sau này. Theo ông: Cam Ranh là vị trí chiến lược, một khu vực phòng thủ then chốt của miền Trung và của cả nước là căn cứ bảo vệ cả một vùng biển rộng lớn và quần đảo Trường Sa… Tướng Lê Đức Anh trăn trở, tìm mọi cách thuyết phục các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta, thu hồi bằng được cảng Cam Ranh càng sớm càng tốt. Bằng cách nào để thu hồi cảng Cam Ranh một cách êm thấm? Bởi trước đây Tổng Bí thư Lê Duẩn và Tổng Bí thư Brezhnev Liên Xô đã ký Hiệp định đoàn kết và hợp tác toàn diện, những gì đã ký kết thì hai bên phải tôn trọng. Lúc này với cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh nghiên cứu kỹ “Hiệp định” xem chỗ nào “sơ hở” để tháo gỡ.

Mặc dù biết “Hiệp định” còn thời hạn tới năm 2004, nhưng được sự nhất trí của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đại tướng Lê Đức Anh lúc này với cương vị là Chủ tịch nước đã chỉ đạo Bộ Quốc phòng và các cơ quan Nhà nước tiến hành trao đổi một cách kiên trì, mềm mỏng, khôn khéo để phía Nga tự rút, trao lại cảng Cam Ranh cho Việt Nam trước thời hạn. Thấy vậy, Đại tướng Lê Đức Anh nói: Các anh rút, chúng tôi chỉ xây dựng cảng cho Hải quân Việt Nam sử dụng, chứ nhất định không cho bất cứ nước nào vào đây thuê. Tôi cam đoan như vậy.

Ông Yuri Krutskikh, cựu quân nhân tàu ngầm thuộc Hạm đội Liên Xô, phụ trách khâu vũ khí trên một tàu ngầm điện – diesel lớp Dự án 641 (NATO định danh là lớp tàu Foxtrot), thuộc trung đoàn tàu ngầm điện – diesel số 19 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô (đã nghỉ hưu, hiện ở Vladivostok, Nga) đầu tháng 3/2021 ra mắt cuốn sách thứ hai viết về những sự kiện thời ông đóng quân tại căn cứ Cam Ranh (Việt Nam) cuối những năm 1980. Cuốn sách này mang tên Cam Ranh hay là chiếc tàu ngầm lớp Foxtrot cuối cùng. một đoạn trong cuốn sách này về sự kiện (chưa kiểm chứng) lực lượng hải quân Xô viết đóng tại Cam Ranh suýt “để mất” 1 quả ngư lôi hạt nhân trên chiếc tàu ngầm diesel – điện lớp Foxtrot (Dự án 641) mà tác giả phục vụ.

Ông kể: Cuối những năm 1980, ông Krutskikh cùng tàu ngầm được đưa đến căn cứ Cam Ranh để tuần tra Biển Đông. Thời gian ông Krutskikh phục vụ tại Cam Ranh khoảng 7 tháng. Nhiệm vụ của đơn vị ông là giám sát hoạt động của các tàu sân bay và căn cứ hải quân của Mỹ ở Biển Đông, giám sát tuyến hàng hải qua eo biển Malacca. Tàu ngầm lớp Foxtrot được đóng từ cuối những năm 1950, đến thời ông Krutskikh phục vụ là cũng đã hơn 30 năm tuổi nhưng vẫn còn rất bền bỉ, dù điều kiện sinh hoạt trên tàu rất vất vả. Mỗi khi ra khơi, tàu ngầm của ông luôn mang theo 22 quả ngư lôi, trong đó có 2 quả gắn đầu đạn hạt nhân mà theo ước tính, mỗi quả đủ sức đánh chìm một tàu sân bay hạt nhân của Mỹ. Thủy thủ và sĩ quan trên tàu ngầm có tiêu chuẩn riêng về khẩu phần rượu. Thợ máy khoảng 20 lít/tháng, trưởng đài vô tuyến là 15 lít, hoa tiêu 10 lít, và lính phụ trách vũ khí là 3 lít/tháng. Vũ khí mà tàu ngầm mang theo khi tuần tra gồm ngư lôi, mìn biển, súng trường, súng ngắn, và đắt tiền nhất là ngư lôi, nhất là ngư lôi hạt nhân.

Khi về căn cứ, ngư lôi hạt nhân sẽ được tháo dỡ từ tàu ngầm, đưa lên bờ cất vào kho. Một lần có sự kiện hy hữu xảy ra với việc này. Sau một chuyến công tác, tàu quay về căn cứ và thủy thủ phải đưa 2 quả ngư lôi hạt nhân lên bờ. Ông nói: Mọi thứ đều bình thường. Chúng tôi đo tốc độ gió bảo đảm ở mức bình thường rồi đưa ngư lôi ra, báo cho bộ phận trên bờ. Họ đến, kiểm tra mọi thứ và cho phép tiến hành. Quả ngư lôi hạt nhân đầu tiên được đưa khỏi tàu ngầm. Bạn có bao giờ giữ một quả ngư lôi hạt nhân trong tay? Nó là một điếu xì gà khổng lồ màu xanh đen, không có dấu hiệu phân biệt gì với những quả ngư lôi khác cả về màu sắc lẫn kích cỡ. Cũng chẳng có những dấu hiệu cảnh báo như ký hiệu phóng xạ hay đầu lâu và xương chéo.

Thế rồi, chậm rãi nhích từng milimét, quả ngư lôi được chuyển từ trong khoang tàu lên. Rồi một xe cần cẩu đến, cẩn thận nhấc quả ngư lôi lên “như ông bố nâng niu đứa con đầu lòng” rồi hạ nó xuống thùng một xe tải Kamaz đặc chủng đậu gần đó. Tiếp theo, quả ngư lôi hạt nhân thứ hai cũng được thủy thủ cẩn thận, chậm rãi đưa lên boong tàu, chờ cần cẩu đưa lên bờ. Bất ngờ người phụ trách bốc dỡ ngư lôi trên bờ tuyên bố dừng tiếp nhận ngư lôi do lúc này tốc độ gió vượt mức cho phép là 1 m/giây, theo máy đo gió của ông ta. Thế là xe cần cẩu ngừng bốc dỡ, quay về gara. Người phụ trách tiến về phía ông Krutskikh, giao biên bản bàn giao vũ khí và vui sướng được quay về nhà sớm với vợ con. Bạn không thể để quả ngư lôi hạt nhân nằm trên boong tàu, lỡ trời mưa và có thể nó sẽ bị đánh cắp. Và rồi chậm rãi từng milimet, chúng tôi lại đưa quả ngư lôi xuống khoang tàu, cho vào ống phóng và đậy nắp lại.

Sáng hôm sau mọi thứ có vẻ yên tĩnh… Nhưng chẳng ai vội vã với việc mang quả ngư lôi hạt nhân còn lại khỏi tàu chúng tôi. Sau bữa trưa, tôi lo lắng và gọi điện cho bộ phận vũ khí của căn cứ. Một giọng ngái ngủ trả lời là không biết gì cả, xin đừng quấy rầy (?). Nửa giờ sau, tôi gọi lại và hỏi khi nào thì cần cẩu đến để bốc dỡ ngư lôi. Giọng nói hồi nãy trả lời với vẻ bực mình rằng ngư lôi đã được bốc dỡ xong hôm qua, có biên bản giao nhận đủ 2 quả trên bàn anh ta. Ngư lôi đã ở trong kho, đừng có hỏi ngốc nghếch nữa”, rồi anh ta dập máy. Thế là ông Krutskikh liền xem lại biên bản mình đang giữ một bản và nhận ra trong đó ghi đã nhận 2 quả chứ không phải 1, có chữ ký của người phụ trách bốc dỡ vũ khí.

Như vậy quả ngư lôi đang ở trên tàu là của chúng tôi! Tôi liền báo cho chỉ huy tàu, chỉ huy tỏ ra vui sướng. Chúng tôi nhất trí nên chuyển giao quả ngư lôi hạt nhân này cho Saddam Hussein. Một cuộc tranh cãi nhỏ đã xảy ra chỉ vì câu hỏi cần lấy của Saddam bao nhiêu tiền. Chỉ huy nói rằng anh ta sẽ không chiến đấu với một người bạn, chỉ cần một triệu USD là đủ, và tôi muốn đến 10 triệu USD cũng không phải là chuyện vặt. Tuy nhiên giấc mơ triệu phú của các quân nhân tàu ngầm chỉ tồn tại được… 2 giờ. Ngay trước bữa trưa, một xe cẩu cùng các đại diện của kho vũ khí đến nơi tàu ngầm đang đậu. Tốc độ gió lúc này bình thường. Và nửa giờ sau, quả ngư lôi hạt nhân còn lại được chậm rãi, cẩn thận đưa từ dưới tàu lên, để cho cần cẩn cẩu lấy và đặt vào thùng xe tải Kamaz chuyên dụng chở ngư lôi. Và rồi quả ngư lôi được đưa về cất giữ ở kho vũ khí bên dưới lòng đất. Thật đáng tiếc, lẽ ra đã có cơ hội vào cuối những năm 1980 để thay đổi toàn bộ lịch sử thế giới: cứu Saddam Hussein khỏi phòng tra tấn và giá treo cổ, và Iraq khỏi sự sỉ nhục và cướp phá. Cũng sẽ không có xuất hiện bọn I S, không có khủ ng b ố, sẽ không có gì xảy ra. Nhưng ông Krutskikh không buồn lâu. Vài tháng sau, tàu ngầm lại nhận ngư lôi hạt nhân đi tuần tra tiếp, và sau khi quay về căn cứ, khẩu phần rượu của ông được tăng gấp đôi.

Ngày 10/12/2009, hai nước khánh thành tượng đài Tưởng niệm những người Liên Xô/Nga và Việt Nam hy sinh tại bán đảo Cam Ranh vì hoà bình, ổn định khu vực. Vấn đề hải quân Nga trở lại Cam Ranh vẫn âm ỉ đã rộ lên trên báo chí Nga trong tháng 10/2010, trước chuyến thăm Hà Nội của Tổng thống Nga Dmitri Medvedev. Giới quân sự Nga, một số tướng lĩnh, đô đốc tại ngũ và nghỉ hưu, chuyên gia quân sự Nga cũng đã đề cập khả năng hải quân Nga trở lại Cam Ranh. Hãng RIA Novosti thời điểm đó dẫn lời Trợ lý Tổng thống Nga Sergei Prikhodko nói với báo giới ngay trước chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Medvedev rằng, Kremlin không thấy cần phải tái lập căn cứ quân sự ở Cam Ranh, nhưng quan tâm đến hoạt động của một căn cứ bảo đảm vật chất-kỹ thuật cho hải quân. Nguồn tin cấp cao ở Moscow cho biết, Nga không định triển khai tại Cam Ranh vũ khí trang bị và binh sĩ như thời Liên Xô. Căn cứ này sẽ phần nhiều giống với căn cứ ở cảng Tartus, Syria, nơi mà các tàu hải quân Nga vẫn ghé vào trong các cuộc hành quân trên Địa Trung Hải. Việc thành lập một căn cứ như thế ở Cam Ranh không nên gây lo ngại cho các nước láng giềng của Việt Nam.

Tháng 10/2010, phát biểu trong buổi họp báo kết thúc Hội nghị cấp cao ASEAN, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, Việt Nam sẽ xây cảng dịch vụ tổng hợp tại Cam Ranh và Việt Nam sẽ cung cấp dịch vụ cho tàu của hải quân tất cả các nước, kể cả tàu ngầm, theo cơ chế thị trường như nhiều nước trên thế giới đã làm. Rõ ràng sự trở lại Cam Ranh của quân đội Nga là vấn đề được cả Việt Nam và Nga suy tính kỹ, trong một thời gian dài và là quyết định sáng suốt, đáp ứng lợi ích của cả hai bên, đồng thời có tầm ảnh hưởng lâu dài đến hòa bình và ổn định của khu vực Đông Nam Á. Thông tin trên được đưa ra sau khi Việt Nam ký hợp đồng mua 6 tàu ngầm lớp Kilo của Nga.

Sang tháng 11/2010, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh cho biết, các công ty Nga được ưu tiên trong việc xây dựng Trung tâm hậu cần dịch vụ quân sự tại cảng Cam Ranh. Việc này rất dễ hiểu bởi lẽ vũ khí, khí tài quân sự trước đây của Việt Nam đều do Liên Xô viện trợ và hiện vẫn đang được bảo quản theo phương thức “giữ tốt, dùng bền”. Các vũ khí mà Việt Nam mua sắm thời gian gần đây chủ yếu vẫn là của Nga, bởi Nga là đối tác chiến lược. Về mặt chính trị, Nga là đối tác tin cậy. Về mặt công nghệ, vũ khí của Nga cũng hiện đại và Việt Nam đã quen sử dụng, hiệu quả chiến đấu đã được thực tế kiểm chứng.

Tháng 11/2013, trong cuộc hội đàm giữa Tổng thống Nga và Chủ tịch nước Việt Nam, hai bên đã ký kết hiệp định về việc mở căn cứ chung để bảo dưỡng và sửa chữa tàu ngầm tại Cam Ranh. Các chiến hạm Nga được quyền sử dụng căn cứ theo thủ tục đơn giản hóa hơn so với các quốc gia khác. Kể từ năm 2014, không quân Nga sử dụng Cam Ranh để bố trí ở đây các máy bay tiếp nhiên liệu Il-78 thực hiện nhiệm vụ tiếp dầu trên không cho các máy bay ném bom chiến lược Tu-95 của Nga. Sự hiện diện của các máy bay tiếp dầu Nga ở Cam Ranh không vi phạm nguyên tắc của Việt Nam là cấm bố trí các căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ nước mình. Việt Nam thực thi chính sách đối ngoại độc lập dựa trên các nguyên tắc: không liên kết và từ chối tham gia vào các liên minh. Tuy nhiên điều đó không loại trừ quan hệ thân thiện truyền thống với Nga.

The Diplomat (Nhật Bản) cho rằng: Nếu Hà Nội muốn trên sân khấu thế giới Việt Nam được xem như một cầu thủ độc lập, thì phải tuân thủ các nguyên tắc trong chính sách đối ngoại đã được thiết lập sau Chiến tranh Lạnh. Hà Nội nên tái khẳng định với thế giới, rằng Vịnh Cam Ranh mở rộng cửa cho các quốc gia khác nhau và các hạm đội khác nhau, cả quân sự và dân sự. Điều đó sẽ phục vụ lợi ích của Việt Nam.